TIN TỨC PHONG THUỶ
NHỮNG TỤC LỆ TRONG MA CHAY (1)
NHỮNG TỤC LỆ
TRONG MA CHAY
Đời người ai cũng phải đi qua ba giai đoạn từ Ấu – Tráng đến Lão, vì vậy mọi người đều không qua khỏi vòng càn khôn Sinh – Lão – Bênh – Tử. Vẫn như phong tục cưới hỏi, hiện nay nhiều gia đình ít hiểu biết về những phong tục tập quán trong tang ma. Simphongthuy.vn xin có bài viết sau đây :
- Khi còn trẻ con, mọi người sống với gia đình cùng ông bà cha mẹ, lúc thành niên bắt đầu xây dựng sự nghiệp, cưới vợ lấy chồng rồi sinh con đẻ cháu, bỗng thoáng đó đã trở về già có khi vì lão hóa sinh ra bệnh tật, và về lại lòng đất. Những chu kỳ ấy không bao giờ thay đổi. Có chăng người đó được sống thọ đến bao nhiêu tuổi, chứ chưa ai được hưởng sự trường sinh bất tử cả.
Vì thế trong phong tục Á đông nói chung và Việt Nam nói riêng, khi trong gia đình có người thân qua đời, ai cũng buồn thương nhớ, dù người chết có sống đến trăm tuổi đi nữa.
Tuy vậy việc sửa soạn lễ tang theo phong tục phương Đông tuy thấy đơn giản, nhưng lại có rất nhiều lễ tục diễn ra đa số còn tồn tại đến ngày nay.
Sau đây là những tục lệ trong tang ma.
A/- chia gia tài
Nhà nào có người lớn tuổi đang hấp hối, con cháu phải mời gọi các con cái và nhất là cháu đích tôn đến bên nghe di chúc (những nhà giàu có bây giờ, việc để lại di chúc đã được soạn trước đã có công chứng làm bằng, đề phòng sau này nếu xảy ra tranh chấp, tòa án sẽ chiếu theo di chúc phân xử).
Nếu người sắp chết không để lại di chúc chỉ nghe qua truyền khẩu làm lời nói bất thành văn tự, sẽ tùy mọi người trong gia đình bàn thảo, nếu có tranh chấp vụ việc sẽ đưa ra tòa án xử theo luật hôn nhân gia đình quyền thừa kế mà phân chia tài sản. Con cái dù trong giá thú, hay ngoài giá thú (nếu chứng minh được nguồn gốc huyết thống sẽ được chia đều). Trong các phiên tòa xử các vụ án dân sự như trên, những người con ngoài giá thú tức không có tên cha, đều không được luật pháp công nhận, nếu có tên cha nhưng người mẹ không có hôn thú, người con vẫn được tòa án xử cho nhận một phần gia tài).
Nếu còn rắc rối hơn, ngày nay khoa học có phương pháp tìm ra “gien” di truyền là tức ADN, hơn hẳn việc lấy máu thử như những năm của thế kỷ XX trước đây.
B/- chuẩn bị tang lễ
Nếu người chết theo đạo Thiên chúa đã có tên Thánh, còn người bên lương (không theo đạo, đạo thờ cha mẹ, hoặc thiên về Phật giáo) gia đình sẽ mời các vị Thượng tọa, Đại đức đến đặt cho một pháp danh (nếu chưa quy y tam bảo).
Tuy nhiên có một số người không xin pháp danh hay tên Thánh, vì họ không theo đạo nào, như trong xã hội chúng ta còn rất nhiều gia đình chỉ biết thờ cúng ông bà là chính.
Người nhà người hấp hối, chuẩn bị nước ấm, trầm hương lau người sạch sẽ, thay đổi áo quần cho người sắp chết cho tươm tất.
Khi tắt thở, liền lấy chiếc đũa để ngang hàm, bỏ một nắm gạo và ba đồng tiền vào miệng (nhà có tiền sẽ bỏ vào ít vàng, cỡ vài phân, vài ly) gọi là ngậm hàm, ý nói người chết khi xuống địa ngục khi đi qua 18 cửa ngục âm ty, nếu có tiền có vàng sẽ dễ ăn nói (các người xưa có câu trần sao âm vậy).
Con trai trưởng và cháu đích tôn là những người đầu tiên đến vuốt mắt cho người chết, dù người chết đã khép mắt.
Xong mới đưa xác người chết nằm dưới đất ít phút, có nghĩa “người ta sinh ra bởi đất thì khi chết lại trở về với đất”, rồi mới đặt ngay ngắn lên giường chờ giờ tẩn liệm vào áo quan. Trên đầu người chết để một cây đèn dầu, trên người để một nải chuối xanh, một con dao lớn (phòng khi xác chết thành Quỷ nhập tràng. Khi xưa người ta cho rằng, xác để nằm như thế, nếu có con mèo mun đen nhảy qua, người chết sẽ ngồi bật dậy, hay đứng cả người thành quỷ rượt theo người sống, để con dao như thế cho ma quỷ đừng đến quấy phá. Nhưng thật ra, để con dao trên xác người chết, theo khoa học chỉ nhằm cho khí âm còn tích tụ trong xác chết được tiêu tan; ngày nay ngoài việc để dao, người ta còn đốt than để dưới gầm giường là vậy). Đắp mặt bằng một cái khăn (trước đây, người con trai trưởng sẽ cầm cái áo người chết thường mặc trèo lên mái nhà hú vía ba tiếng, có ý mong cho người chết sống lại, rồi cũng chiếc áo đó phủ lên mặt xác chết).
Xong phần này, trong gia đình mới phân công mỗi người lo liệu mỗi việc, người đến chùa thỉnh thầy đến tụng niệm, xem ngày giờ chết, giờ tẩn liệm, ngày giờ động quan, hạ huyệt. Người lo áo quan xe đòn, đội kèn trống tây ta, xe đưa rước thân bằng quyến thuộc hàng xóm đến nơi an nghỉ cuối cùng. Người lo chỗ chôn cất (nếu tin phong thủy, đi tìm thầy địa lý xem lại hướng đất thế đất v.v..), người lo liệu xin giấy khai tử, người lo sắp đặt trong nhà đón khách đến phúng viếng chia buồn v.v….
Đây là những thủ tục mà bất cứ gia đình nào lo ma chay nào cũng phải thực hiện, và tùy theo hoàn cảnh gia đình mà lo liệu. Hiện nay nhiều lễ tang thực hành tiết kiệm, tránh khoa trương và không kéo dài tang lễ nhiều ngày. Trước để tránh phiền hà hàng xóm, mặc dù nhà có ma chay không ai chấp nê, nhưng để xác lâu ngày sẽ đâm thối rửa, lây lan bệnh truyền nhiễm; sau là kèn trống inh ỏi sẽ làm hàng xóm mất ngủ, cũng là sự tế nhị trong một cộng đồng dân cư.
>>> Để tang lễ được suôn sẻ, việc xem ngày vô cùng quan trọng để đưa người thân về nơi yên nghỉ, quý bạn có thểm khảo ngay tại đây: Xem ngày tang lễ
C/- Liệm có nghĩa là gì
Nhà có tiền dùng nhiều vải vóc lụa là, nhà bình thường chỉ dùng vải thô trắng (vải tám, calicot, katé) may làm đại liệm, tiểu liệm (đại liệm là một mảnh dọc, năm mảnh ngang – Tiểu liệm một mảnh dọc, ba mảnh ngang), dùng tẩn liệm khi xác nhập quan, gia đình bỏ vào trong áo quan (quan tài).
Khi xưa người Việt thường thấy các thầy cúng hay thầy pháp bỏ vào trong áo quan một mảnh ván có đục hình bảy ngôi sao tức “Bắc đẩu thất tinh”. Trước khi nhập quan, xác chết được nhà đòn (trại hòm) mặc thêm một chiếc áo (tùy theo tuổi vừa chết : hưởng dương hay hưởng thọ, hưởng dương là gì? hưởng dương là dưới tuổi 60 áo màu xanh, còn hưởng thọ trên 60 áo màu đỏ, người có chân tu, như tu tại gia, người cách ly gia đình đi tu mặc áo màu vàng. Đây là tục cho lũ quỷ sứ dưới âm phủ biết tuổi người chết).
Trước khi nhập quan, phải chọn giờ tránh tuổi cho người sống, rồi dùng bùa nọ bùa kia dán ở trong hoặc ngoài áo quan, người ta tin rằng có người chết vào giờ trùng nhật, trùng tháng, trùng năm. Có người chết không hợp tuổi nên con cái sẽ khó làm ăn phát huy nghề nghiệp v.v.. có địa phương không dán bùa mà lại bỏ trong áo quan những cổ bài, hay quyển lịch – thời phong kiến, người ta đi tìm những cuốn lịch có dấu ấn, tức lịch được công nhận (ngày nay là lịch được dán tem chăng ?!) – hoặc tàu lá gồi để yểm người chết không cho trở về nhà quậy phá người sống, hoặc trấn áp ma quỷ theo cách mê tín như đã trình bày.
Khi tẩn liệm nhập quan, những người con hay bà con gần xa khắc tuổi người chết, sẽ được khuyên không nên xuất hiện cho đến khi nắp quan được khép kín. Nắp quan phải được đóng đinh và niêm kỹ bằng chất keo tốt cho xác chết dù có thối rửa cũng không tràn nước ra ngoài, sau đó áo quan được đặt chính giữa nhà.
D/- thành phục
Tẩn liệm xong. Thầy cúng hoặc các sa di đến đọc kinh kệ cho người chết, và bắt đầu làm lễ thành phục.
Bàn thờ bày trước linh cửu gọi là linh tọa (trước đây còn có tục đặt hồn bạch, là lấy khúc vải lụa đắp vào người chết trước khi tẩn liệm, khi nhập quan, lấy lại kết thành hình nhân, nay đã thay bằng hình ảnh của người chết), thầy cúng sẽ kêu tên những người chịu tang từ lớn xuống nhỏ mà phát tang phục. Lúc này, ai muốn khóc mới được khóc (ở thôn quê, nếu nhà neo đơn ít người, các phú hộ còn mướn người đến khóc thuê).
Tang phục chia ra nhiều loại :
- Con trai, con gái, con dâu, cháu đích tôn mặc áo đội khăn, chống gậy. Con gái xỏa tóc, con trai không được cạo râu trong những ngày còn để áo quan trong nhà, chứng tỏ nổi bi thương, có nơi còn không cho tắm rửa !?
- Con rể, hay họ hàng gần chỉ chít khăn trắng trên đầu.
- Cháu nội, khăn có chấm đỏ.
- Cháu ngoại, khăn trắng có chấm vàng.
- Còn các chắt, chít lại quấn khăn màu vàng.
E/- nghi thức tang gia
Sau lễ thành phục, đến cúng cơm cho người chết. Lễ này được gọi “Chiêu tịch diện”, ám chỉ hàng ngày phải có 3 buổi cúng cơm, vào buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều. Trước đây vào buổi sáng, con cái phải bưng chậu nước, khăn mặt, bàn chải răng, thức ăn điểm tâm từ giường người chết thường nằm ra đến chỗ linh tọa, khi đi phải khóc to, tới nơi dâng lên linh tọa mà cúng. Buổi chiều sau buổi cúng cơm mới đem vào. Tục này hiện nay không còn, vì thấy quá cầu kỳ, và tại linh tọa lại thấy không được trang nghiêm cho lắm.
Trong cúng cơm, các người con trai có thể thay nhau, dâng trà, rượu, cơm thịt trước linh tọa, có khi là cháu đích tôn (thông thường là cơm chay).
Trong nhà đám, như chúng tôi trình bày, nhiều gia đình thường mời đội kèn đến đánh trống, thổi sáo, kéo đàn gọi là “Đội kèn giải”, khi có người đến phúng viếng chia buồn, sẽ nổi nhạc ò í e, có người cho tiền nhờ họ khóc mướn, đội kèn giải sẽ vừa trống kèn, vừa ngân nga đọc kể lể theo tâm sự người đã thuê giải bày, giọng kể lể cũng mang vần điệu lúc lên bổng xuống trầm thể hiện sự thê lương nghe thật nảo lòng, ai nghe cũng rưng rưng xúc động. Nhà đám nào không có đội kèn giải, xem như hiu quạnh lắm.
Những họ hàng người miền Bắc xưa và nay, có hội tương tế, hội đồng hương (gọi là người trong họ, trong làng), nếu người chết hưởng thọ, bên hội sẽ cử từ 10 người có tuổi cao trở lên đến tế lễ chia buồn. Họ mặc trang phục trang trọng, áo dài khăn đóng màu trắng, phường nhạc nổi trống kèn như đang diễn một vở tuồng Tàu. Lễ tế ở đây có nghĩa, người trong họ hay trong làng, dâng rượu, trà, bánh, hoa quả lên linh tọa (như lúc cúng cơm), và đọc điếu văn chia buồn với người chết cùng tang gia, đọc xong mới đốt đi như gửi thư cho người chết vậy.
Ở miền Nam có học trò lễ, chỉ mang sắc thái văn hóa, vì tang gia mời đến làm lễ tế, chứ những học trò lễ thường không có họ hàng, đôi khi còn không phải người làng hàng xóm với người chết. Có học trò lễ đến tế, ai cũng biết nhà đó thuộc loại có dư giả tiền bạc, muốn thực hiện một ma chay trang trọng.
Việc khách khứa, họ hàng gần xa, hàng xóm láng giềng, bạn bè thân hữu đến phúng viếng chia buồn, tùy theo khách mà các con trai con gái phải ở hai bên áo quan lạy tạ, khách lạy ba lạy phải đáp một lạy, khách lạy bốn lạy thì đáp hai lạy, khách của người nào người đó lạy tạ, nếu ít tuổi hơn kêu con cháu ra tạ lại. Thông thường có tục nếu khách đưa ma thì lạy ba lạy, còn không đưa ma thì lạy bốn lạy, trước quan tài người chết.
F/- Lễ động quan là gì, di quan là gì
Trước ngày động quan, di quan nhiều gia đình tổ chức đêm không ngủ, các con cái, dâu rễ tề tựu bên áo llệm quan suốt đêm, có ý nghĩa tưởng nhớ người chết, phường nhạc bát âm kèn giải cũng đôi khi ở lại khóc mướn cho tang gia.
Ngày xưa trong đêm không ngủ, tang gia còn làm lễ chuyển cửu, quay đầu quan tài, tức xoay quan tài một vòng, nếu nhà chật hẹp thì người ta rước hồn bạch (nay là di ảnh) đi quanh nhà, cốt ý cho hồn ma không nhớ đường về nhà nữa.
Ngày động quan, di quan còn gọi “ngày phát dẫn”. Cha mất, con trai chống gậy tre, mẹ mất chống gậy vông, nếu con trưởng không có nhà thì cháu đích tôn, nếu cả hai không có mới đến con trai thứ. Con trai con gái không có mặt trong những ngày tang gia, áo mủ khăn tang được xếp lên nóc áo quan.
Trong ngày di quan, nhà đòn rất quan trọng, bởi họ là vai chính trong lễ động quan, di quan, nên tang gia rất coi trọng họ. Cho nên trước khi động quan, tang gia phải có những tờ bạc lớn dằn dưới ly rượu đầy, trước nóc áo quan nhằm tưởng thưởng cho các đạo tỳ khi khiêng quan tài mà không bị đổ rượu, ý muốn để người chết không bị động mà ra đi suôn sẻ. Vùng Nam Bộ nhiều nhà đòn còn tô chức “hát đưa linh”, một nét văn hóa khá độc đáo.
Hát đưa linh tức lúc động quan, di quan, gồm một nhân quan chỉ đạo, và từ 8 đến 10 đạo tỳ (người khiêng áo quan), họ vừa thắp nhang trước linh cửu người chết xong, nhân quan cùng đạo tỳ liền múa may theo điệu hát bộ, và hát hò bằng câu chuyện “chàng Lia cướp quan tài”. Vừa hát vừa động quan rồi đến di quan.
Trên đường đi các đạo tỳ vẫn theo sự chủ đạo của nhân quan, vừa uyển chuyển nhịp nhàng vừa linh động khiêng áo quan theo nhịp của bài ca, bên cạnh là tiếng trống kèn của đội kèn giải đánh theo bài hát, nghe rất tưng bừng (nhưng đây là cách làm các đạo tỳ đang khiêng áo quan, quên đi nổi mệt nhọc).
Thông thường khi di quan, nhà đòn phải có 2 thần tướng làm bằng giấy, hình dung dữ tợn dẫn đường (nhiều người cho là hình tượng của ác thần và thiện thần), thứ đến là thể kỳ có 2 người khiêng, một bức hoành vải trắng đề 4 chữ (như cha mất là câu “Hổ sơn vân ám”, mẹ mất thì ghi “Di lĩnh vận mê” v.v..), và 2 bên treo lồng đèn, ghi tước hiệu và tước danh người chết.
Thứ ba trong việc đưa đám là tấm minh tinh. Tấm minh tinh làm bằng vải đỏ có ghi chức tước, họ tên người chết treo vào một cành tre, hoặc tháp trụ để vào bàn cho mấy người khiêng. Bên dưới tấm minh tinh có 4 chữ Qui, Khốc, Linh, Thinh. Đi sau là các thầy cúng hay nhà sư theo tụng niệm.
Sau tấm minh tinh, nhà đòn còn có bàn hương trên để lư nhang, hai bên cắm đèn cầy, độc bình cắm hoa vạn thọ, và mâm trái ngũ quả, kế đến là thực án bày tam sên hay heo quay bánh trái. Đi trước bàn hương là các con trai người mang di ảnh, người cầm chén cơm chống gậy đi giật lùi đến khi áo quan đưa lên linh xa. Theo sau bàn hương là đội kèn tây, kèn ta.
Rồi đến linh xa (xe đòn) trên để hồn bạch (hay di ảnh); và tang gia nối bước theo sau, kế đến thân bằng quyến thuộc, thân hữu của tang gia đi đưa tiễn.
Lưu ý: Theo quan niệm của ông cha thì sau đám tang nên giữ cặp đèn cầy bái quan bởi chiếc đèn cầy này đem lại rất nhiều công dụng khác nhau như trị khóc ở trẻ em, ổn định bất hòa trong gia đình ….
Trước khi động quan, nhà đám phải cúng tam sên ở giữa đường đi, như ý xin đường còn tang gia cúng thổ thần như bẩm báo người chết tên gì, tuổi gì không còn ở trong ngôi nhà này nữa (ý như xóa tên ra khỏi hộ khẩu, nếu thành ma trở về nhà thì các thổ thần sẽ không cho vào nhà).phong thuy so dien thoai
Khi động quan, nhóm đạo tỳ có người đại diện thắp nhang và đèn khấn bái trước quan tài, các đạo tỳ khác phải quỳ lạy cung kính theo lệnh của đại diện, khấn bái xong mới động quan (xem phần hát “đưa linh” ở trên).
Khi quan tài được khiêng ra khỏi cửa, trong nhà phải đập bể một vài món đồ dùng (như nồi niêu v.v… làm bằng đất) để tạo ra tiếng nổ lớn, cho tà ma sợ mà đi ra hết khỏi nhà.
Các cô con gái báo hiếu cha mẹ thì nằm lăn đường, tức nằm ngang đường mà lăn vài ba mươi thước, các đạo tỳ khi khiêng áo quan, sẽ bước qua người.
Khi đi đường đến nghĩa trang, tang gia rải giấy tiền vàng bạc, nhằm hối lộ cho đám tà ma quỷ dữ, kẻo quan tài nặng nề khó đi.
Đó là những bước của di quan và động quan.
G/- Lễ hạ huyệt
Khi nhà đòn đưa quan tài đến nghĩa trang, ở đây nếu có nhà trạm thì đưa áo quan vào, cho bên tang gia quỳ lễ cám ơn, hoặc có phần đọc điếu văn và đáp tạ cũng được diễn tiến tại đây. Thường thì điếu văn người chết trẻ sẽ rất thương tâm.
Lúc đến giờ tốt, tang gia lại có mâm cúng thổ thần tại nghĩa trang, nếu có thầy địa lý phong thủy sẽ có mặt tại huyệt nhằm phân kim gióng hướng cho đúng, khi đến giờ mới cho đạo tỳ hạ quan.
Khi áo quan đã định vị đúng hướng là phần lấp huyệt. Tang gia và họ hàng, những người đi tống tang (người quen đi đưa tiễn) sẽ đi quanh huyệt mà ném từng hòn đất xuống lòng huyệt. Khi hạ huyệt xong, người con trai trưởng sẽ quỳ lạy những người đưa tiễn 4 lạy, có nghĩa cảm tạ người đến tiễn vong linh và bắt đầu lấy đạo thờ người chết để tang.
Trong quá trình đưa ma, con cái lúc nào cũng phải khóc than.
H/- ngu tế
An táng xong, cả tang gia trở về nhà lại tế, người xưa gọi là “Ngu tế” (ngày chôn là sơ ngu, ngày thứ hai là tái ngu, và ngày thứ ba là tam ngu). Ngu có nghĩa là yên. Vì người chết hồn phách chưa yên nghỉ nơi nào, cho nên tế 3 lần để hồn phách người chết được yên ổn. Nay tục này cũng ít thấy gia đình nào còn thực hiện.
>>> Sau khi ngu tế việc chọn hướng bàn thờ sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến vận khí trong nhà, quý bạn có thể tham khảo Hướng đặt bàn thờ phong thủy
Xem thêm: Những tục lệ ma chay phần 2
Nếu quý bạn muốn kích công danh, sự nghiệp, tài vận, gia đạo, tình duyên hay giải hạn, bạn có thể chọn sim phong thủy trong kho sim phong thủy hợp từng công việc sau đây: